Trong thực tế sản xuất, do các dòng di chuyển không ranh giới của dịch bệnh và chất ô nhiễm, bởi vậy hệ thống sản xuất nông nghiệp sinh thái có quy mô càng lớn sẽ càng đạt hiệu quả cao (ví dụ quy mô hợp tác xã, tỉnh hoặc khu vực).
Lợi thế của nông nghiệp sinh thái
Đối mặt với đa dạng và cộng hưởng từ các rủi ro ngày càng tăng, nông nghiệp sinh thái sẽ có nhiều lợi thế hơn so với nông nghiệp thâm canh hoá học. Ví dụ, so sánh người dân A độc canh cây ngô và người dân B áp dụng hệ thống tổng hợp lúa - ngô - nuôi gà. Người dân B sẽ có năng lực độc lập cao hơn về nhu cầu tự cung tự cấp thực phẩm cho gia đình, khả năng tái sử dụng chất thải cao (bởi vậy ít phụ thuộc vào phân bón hóa học hoặc hữu cơ mua từ bên ngoài), khả năng đàn hồi trong điều kiện rủi ro cao hơn (ví dụ khi giá ngô giảm chẳng hạn), khả năng sử dụng nhân công gia đình, tài nguyên khác cũng hợp lý và hiệu quả hơn.
Nông dân trồng cải bắp ở Indonesia áp dụng thành công IPM đã cắt giảm lượng thuốc sâu sử dụng tới 80%, thuốc trị nấm 90% trong khi năng suất cải bắp tăng 7,6%.
Từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, nông dân các nước khác như Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan và Guatemala cũng đã cắt giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật tới 33 - 37% trong khi năng suất cây trồng nhìn chung vẫn được duy trì ổn định.
Mục thiêu chính của nông nghiệp sinh thái là phục hồi và tăng cường chất lượng dịch vụ sinh thái nhằm cải thiện hiệu quả sản xuất và duy trì hoặc tăng năng suất cây trồng (so với nông nghiệp thâm canh hóa học); cải thiện môi trường sống và chất lượng nông sản giúp tăng phúc lợi cho người dân nói chung và toàn xã hội nói riêng; tăng năng lực sản xuất cho người dân và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Nông nghiệp sinh thái - Lựa chọn cho Việt Nam
Các thành phần trong hệ sinh thái tự nhiên nói chung và nông nghiệp nói riêng tác động qua lại nhau rất phức tạp với sự hiện diện của hàng trăm, hàng ngàn yếu tố, và đến nay khoa học cũng chưa hiểu biết nhiều về các tác động này.
Trong nghiên cứu của Costanza và cộng sự (năm 1997) đã xác định 17 dịch vụ sinh thái của hệ sinh thái tự nhiên cung cấp cho con người. Hiểu một cách đơn giản, các giá trị sinh thái này chính là nền tảng duy trì lợi ích kinh tế trực tiếp từ tất cả các hoạt động kinh tế của con người, bao gồm sản xuất nông nghiệp. Khi chất lượng dịch vụ sinh thái suy giảm, lợi ích kinh tế trực tiếp trong sản xuất nông nghiệp cũng suy giảm theo.
Sự tàn phá các dịch vụ sinh thái đã đẩy Việt Nam vào tình thế đối mặt với ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên, và những căng thẳng về an toàn thực phẩm trong suốt nhiều thập kỷ qua. Cách sửa chữa và phục hồi lại các dịch vụ sinh thái này chỉ có thể duy nhất qua áp dụng các giải pháp sinh thái trong sản xuất nông nghiệp.
Sức sản xuất (lâu dài) của hệ sinh thái nông nghiệp và chất lượng nông sản bị chi phối, quyết định bởi các dịch vụ sinh thái hỗ trợ (chất lượng đất, nước, và đa dạng sinh học...). Bởi vậy, trong điều kiện rủi ro từ dịch bệnh, BĐKH, thị trường, suy thoái tài nguyên rộng khắp cũng như áp lực dân số trên toàn cầu như hiện nay, việc bảo vệ các nguồn tài nguyên nông nghiệp phải được xem là ưu tiên hàng đầu trong mục tiêu phát triển quốc gia.
Nông nghiệp sinh thái phải được xem là một lựa chọn thay đổi cho nền nông nghiệp thâm canh hóa học hiện nay. Nông nghiệp sinh thái nhằm tăng cường năng lực sáng tạo của người dân trong các chiến lược thích ứng nhằm thu được thành quả sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao nhất (trên đồng vốn đầu tư), bền vững (bảo vệ được các dịch vụ sinh thái), cũng như bảo đảm chất lượng nông sản, sức khoẻ cho người sản xuất và người tiêu dùng nói chung, tăng năng lực tự chủ sản xuất, năng lực xuất khẩu quốc gia và chất lượng môi trường sống chung cho tất cả chúng ta.